Đồng chí Lê Duẩn là một nhân vật
lớn, một trí tuệ lớn của dân tộc và nhân dân ta trong cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đồng chí và đồng chí Trường Chinh là hai người lãnh đạo lâu năm nhất cuộc
cách mạng nước ta. Đồng chí Trường Chinh, ba lần là Tổng Bí thư, đồng chí Lê
Duẩn làm Tổng Bí thư từ năm 1957 đến 1986, không kể thời gian tham gia Thường
vụ Trung ương (Đại hội I) và Ủy viên Bộ Chính trị (Đại hội II). Sự nghiệp của
đồng chí Trường Chinh gắn liền với cuộc Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống
Pháp và đổi mới. Trong kháng chiến chống Mỹ, các đồng chí Trường Chinh và Lê
Duẩn hợp tác lâu dài với nhau. Sự nghiệp của đồng chí Lê Duẩn gắn liền với cuộc
kháng chiến chống Mỹ từ đầu cho đến khi kết thúc. Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, ông là người lãnh đạo cao nhất của Đảng ở Nam Bộ. Trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và nêu cao nguyên tắc tập trung
dân chủ, không chấp nhận vai trò quyết định của một người, tuy coi trọng tiếng
nói của người đứng đầu. Trong hai cuộc kháng chiến, vai trò lãnh đạo tập thể
của Bộ Chính trị bảo đảm được sự đúng đắn và thắng lợi. Sức mạnh quan trọng
nhất của dân tộc ta là sức mạnh tinh thần, trí tuệ, văn hóa. Nhờ có sức mạnh
ấy, một dân tộc nhỏ trong suốt hàng ngàn năm đã anh dũng chiến đấu chống lại
ách đô hộ của các đế chế, đánh thắng các thế lực xâm lược tầm cỡ thời đại. Vào
thế kỷ XIII, ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông, thế kỷ XX đã đánh thắng quân
xâm lược Pháp và Mỹ. Dũng cảm chiến đấu và sẵn sàng hy sinh, tất cả vì độc lập,
tự do là lẽ sống của mỗi người Việt Nam. Đánh thắng thực dân Pháp xâm lược đã
khó, đánh thắng sự nô dịch của đế quốc Mỹ là điều bất ngờ lịch sử trước hết đối
với nhiều người. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân
Việt Nam
mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân cũ. Các nước đế quốc này đã suy yếu sau hai cuộc chiến tranh thế giới,
không còn khả năng lấy lại những vùng đất hải ngoại. Là nước không bị thiệt hại
nhiều, lại được lợi lớn trong hai cuộc chiến tranh ấy, nước Mỹ tưởng rằng mình
có thể lấp chỗ trống do các nước châu Âu rút quân về, thiết lập một hệ thống
thực dân mới. Sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương từ năm 1950 là nhằm mục đích
ấy. Ngăn chặn làn sóng cách mạng đang phát triển mạnh từ Bắc Á đến Nam Á trong
khi họ phải giữ Tây Âu trong khu vực ảnh hưởng của mình. Sự can thiệp của Mỹ
vào Việt Nam
nhằm thực hành thuyết lấp chỗ trống của Tổng thống Tru-man ở Đông - Nam Á, là
khu vực mà phong trào dân tộc đang phát triển. Mỹ chống lại giải pháp hòa bình
ở Đông Dương năm 1954 là nhằm thực hiện chiến lược của họ, theo đó cuộc đối đầu
ở khu vực này từ những năm 1950 đến 1970 là tất yếu. Về phía Việt Nam, Hồ Chí
Minh kiên trì con đường hòa bình ngay từ năm 1946, thương lượng với Pháp. Tại
Giơ-ne-vơ, Việt Nam
vẫn kiên trì theo đuổi giải pháp hòa bình. Trong những năm 1954 đến 1958, chúng
ta đấu tranh đòi tổng tuyển cử. Đáp lại, chính quyền do Mỹ dựng lên ở Sài Gòn
trả lời bằng cuộc chiến tranh đơn phương. Đồng bào miền Nam đồng khởi
chống lại đế quốc Mỹ và chính quyền do Mỹ dựng lên và giật dây. Là người lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn ở lại vùng
địch kiểm soát, chỉ huy cuộc kháng chiến thứ hai. Đồng chí soạn thảo "Đề
cương cách mạng miền Nam"
gửi ra Bộ Chính trị vào năm 1957. Lúc ấy, Trung ương Đảng cũng chuẩn bị soạn
thảo đường lối giải phóng miền Nam
và chỉ định Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết đề cương. Giữa năm 1957, đồng chí Lê
Duẩn ra Hà Nội, được Trung ương cử lãnh đạo công việc chung của Đảng bên cạnh
Hồ Chủ tịch, chỉ đạo việc chuẩn bị Hội nghị Trung ương bàn về cách mạng miền
Nam và Đại hội III của Đảng. Dướisự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Bộ Chính trị chuẩn bị phê chuẩn cương lĩnh mới. Làm nhiệm vụ của Tổng Bí thư,
đồng chí Lê Duẩn phải làm việc nhiều nơi trong những năm 1958 cho đến 1960 và
trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1960 cho đến 1975. Trí tuệ
là sức mạnh to lớn của thắng lợi. Sức mạnh đó là của tập thể, của hiện tại và
cả quá khứ. Chúng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn mới mẻ
và cực kỳ phức tạp của tất cả các mặt của cuộc chiến và cách mạng. Một dân tộc
nhỏ đương đầu và chiến thắng một đế quốc khổng lồ là một vấn đề xưa nay chưa có
và vấn đề là dám chấp nhận cuộc chiến đấu và biết thắng lợi. Đồng chí Lê Duẩn
góp phần to lớn vào việc xử lý những vấn đề sống còn đó. Biết đánh và biết
thắng. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đảng ta phải giải quyết nhiều
vấn đề mới về lý luận và tổng kết thực tiễn sau đây: Một là, nắm vững quyền độc
lập, tự chủ về đường lối và chính sách. Cách mạng nước nào do chính đảng của
nước đó chỉ đạo. Không nhập khẩu và xuất khẩu cách mạng, tuy vẫn phải tham khảo
kinh nghiệm của nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Qua 30 năm hoạt động, từ 1930 - 1960,
Đảng ta đã thấm thía điều đó. Trong khi Mỹ can thiệp sâu vào nước ta, các nước
lớn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa bất hòa, chia rẽ sâu sắc nhưng một số nước
lại nhất trí trong thực tế không phản đối đế quốc Mỹ gây chiến, thậm chí lại
cản ngăn ta chiến đấu. Ta phải xác định con đường của mình. Hai là, hạ quyết
tâm đánh thắng bằng sức mạnh của mình, hạn chế chiến tranh ở miền Nam, không
tạo cho địch khả năng quốc tế hóa, không làm cuộc chiến tranh lại kéo dài nhằm
chờ thời cơ đánh thắng từng bước, đánh đổ từng bộ phận. Mỹ chủ trương ra chiến
lược chiến tranh, thăm dò bằng chiến tranh đặc biệt ở Đông - Nam Á. Ta bắt đầu
bằng chiến tranh hạn chế. Nhằm mục đích ấy, Đảng ta xác định hai nhiệm vụ chiến
lược của cuộc cách mạng Việt Nam
từ năm 1960: Giải phóng miền Nam
là nhiệm vụ trực tiếp của đồng bào miền Nam;
miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, có nhiệm vụ chi viện miền Nam. Đế quốc Mỹ
ngạo mạn phất ngọn cờ chống cộng. Ta giương cao ngọn cờ cứu nước, giải phóng
dân tộc. Ta không phát động cả nước kháng chiến, và khi Mỹ đưa quân viễn chinh
vào miền Nam
và đánh phá miền Bắc bằng không quân, ta không kêu gọi quân tình nguyện quốc
tế. Đảng ta tập hợp Mặt trận Dân tộc thống nhất trong nước và mặt trận quốc tế
ủng hộ Việt Nam
chống Mỹ xâm lược. Trong mặt trận quốc tế, ta xác định đồng minh chiến lược là
các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Ta đặc
biệt coi trọng sự đồng tình của nhân dân Mỹ phản đối các thế lực đế quốc hiếu
chiến. Đường lối ấy đưa đến thành công lớn. Ba là, đánh trên nhiều mặt trận:
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và ở ba vùng chiến lược. Đánh thắng từng
bước, không đánh kéo dài và không hình thành các phòng tuyến cứng nhắc. Địch có
sức mạnh quân sự và kinh tế áp đảo. Ta hơn địch về sức mạnh tinh thần, văn hóa,
tức là sức mạnh mềm. Ta phải dùng thế mạnh tinh thần và biết biến nó thành sức
mạnh vật chất. Đánh chỗ yếu, tránh chỗ mạnh, nhưng lại biết tập trung sức mạnh
vật chất bất ngờ đánh vào chỗ mạnh nhất của địch, làm rối loạn địch ở tầm chiến
lược và lung lay ý chí xâm lược của chúng. Ta không tập trung quân lực vào việc
chặn đánh các sư đoàn của Mỹ mà tập trung quân đội đánh vào Sài Gòn, Đà Nẵng và
nhiều căn cứ lớn của địch (1968). Bốn là, ta không phát động cả nước đứng dậy
kháng chiến như năm 1946, nhưng đã làm tất cả những nhiệm vụ cần thiết để đánh
thắng đế quốc Mỹ xâm lược, như: - Chi viện người và vũ khí; - Tổ chức chi viện
lớn qua đường bộ và đường biển; - Tổ chức việc đào tạo và chỉ huy thông suốt cả
nước; - Thống nhất tổ chức đảng và các lực lượng vũ trang, các đoàn thể chính
trị. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân một ý chí là nhân tố quyết định cho mọi
thắng lợi. Năm là, xử lý đúng đắn quan hệ thế và lực. Chiến dịch lớn là sự thể
hiện quan hệ giữa thế và lực. Chiến dịch năm 1968 và chiến dịch năm 1975 thể
hiện việc xử lý đúng đắn mối quan hệ này, biến thế thành lực, biến lực tinh
thần thành lực vật chất. Năm 1968, số quân nhân của Mỹ ở miền Nam lên trên
500.000. Lực lượng tinh nhuệ của ta sử dụng trong chiến dịch chỉ bằng một phần
mười của địch, thế mà lật ngược được thế chiến lược của địch, chúng phải xuống
thang chiến tranh vì ý chí xâm lược đột nhiên suy yếu. Nhân dân Mỹ xuống đường
đòi chấm dứt chiến tranh. Thế và lực của ta từ sau năm đó phát triển nhảy vọt.
Sáu là, chấp nhận vừa đánh vừa đàm, đánh là chính, đàm nhằm làm lay chuyển
quyết tâm chiến lược của địch. Từ năm 1969 -1975, ta giành được thế chủ động
chiến lược, mở nhiều chiến dịch lớn thắng lợi và chuẩn bị các điều kiện cần
thiết để “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Bảy là, nghệ thuật quân sự của
ta xuất sắc thể hiện trong cả hai cuộc kháng chiến là không bị bất ngờ và bị
động về chiến lược. Địch không nắm được chiến lược của ta, trái lại, ta kịp
thời phát hiện chiến lược của địch trong các chiến dịch Điện Biên Phủ, Mậu
Thân. Ta kịp thời chuẩn bị lực lượng đối đầu với hải quân Mỹ ở miền Nam và
không quân Mỹ ở miền Bắc. Chiến dịch B52 của Mỹ đánh vào Hà Nội không làm bất
ngờ và đảo lộn chiến lược của ta. Ngược lại, ta đã làm tan rã ý chí xâm lược
của chúng, buộc chúng phải chấp nhận thất bại quân sự, đơn phương rút quân về
nước. Tám là, đỉnh cao nghệ thuật quân sự của ta thể hiện trong chiến dịch Đông
Xuân năm 1975. Nghi binh hướng sự chú ý của địch vào Kon Tum, Plây-cu để đánh
thẳng Buôn Ma Thuột, gây bất ngờ lớn cho địch, cắt đứt tuyến phòng thủ khiến
chúng rối loạn. Từ chỗ chuẩn bị kế hoạch đánh trong hai năm, sau thắng lợi ở
Tây Nguyên, ta quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược ngay trong mùa
khô năm đó. Và đã thực hiện đúng bằng một chiến dịch thần tốc. Chín là, toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân chung một ý chí, đáp lại lời kêu gọi kháng chiến cứu
nước. Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ.
Nước Việt Nam là một, dân
tộc Việt Nam
là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay
đổi. Hai cuộc kháng chiến của dân tộc ta đều là toàn dân và toàn diện. Đó là
sức mạnh vô địch của ta. Từ năm 1969 đến năm 1975, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
qua đời, Bộ Chính trị Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn đứng đầu, đã giữ vững
ý chí ấy, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi vẻ vang. Đồng chí Lê Duẩn
là một anh hùng cứu nước bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều vị anh hùng
khác. Cống hiến và disản quý báu của đồng chí tồn tại mãi trong sự nghiệp của
dân tộc và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
BBT